Tác động của nước biển dâng, xâm nhập mặn do biến đổi khí hậu đến vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn đến đến năm 2050 và các giải pháp ứng phó
- Thứ ba - 06/09/2022 08:28
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
1. Mở đầu
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nằm ở cuối hạ lưu sông Mêcông, có diện tích 43.266 km2, trong đó có 2.450 km2 mặt nước sông kênh rạch, và dân số là 17.273.630 người (2019), chiếm 13,06% về diện tích và 17,94% dân số Việt Nam.
ĐBSCL là vùng nông nghiệp quan trọng nhất cả nước, cung cấp trên 55% sản lượng lúa và hơn 95% kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam trong thập kỷ qua. Trong các năm gần đây ĐBSCL đóng góp khoảng 70% sản lượng trái cây, 56% sản lượng thủy sản đánh bắt và 70% sản lượng thủy sản nuôi của Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay đây là vùng còn hạn chế phát triển, thu nhập bình quân theo đầu người thấp xa các vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng, tỷ lệ di dân (xuất cư) cao nhất nước. Ngoài các nguyên nhân: hạn chế đầu tư phát triển hạ tầng giao thông, công nghiệp, đô thị, nông thôn, du lịch và trình độ văn hóa, khoa học công nghệ…các tác động tiêu cực do biến đổi khí hậu (BĐKH) làm gia tăng khô hạn, nhất là gia tăng nước biển dâng (NBD) dẫn đến gia tăng xâm nhập mặn, ngập nước biển đang và sẽ là các nguyên nhân quan trọng và lâu dài gây trở ngại cho phát triển bền vững vùng đất này. Các tác động này càng nghiêm trọng đến môi trường và phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) của vùng khi kết hợp với sự suy giảm dòng chảy và phù sa sông Mêcông do phát triển các công trình thủy điện ở các quốc gia thượng lưu.
Nhằm đảm bảo vùng ĐBSCL phát triển bền vững, thích ứng BĐKH và hạn chế tác động từ thượng lưu trong 3 năm 2019 – 2021 Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT) đã chủ trì lập Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 với sự tư vấn của Liên danh HaskoningDHV Nederland B.V – GIZ[3].
Nhằm đảm bảo vùng ĐBSCL phát triển bền vững, thích ứng BĐKH và hạn chế tác động từ thượng lưu trong 3 năm 2019 – 2021 Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH&ĐT) đã chủ trì lập Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050 với sự tư vấn của Liên danh HaskoningDHV Nederland B.V – GIZ[3].
Do yêu cầu hạn chế về số trang, bài báo này không đề cập đến tất cả các vấn đề của BĐKH trong vùng: thay đổi nhiệt độ, lượng mưa, và tác động do BĐKH đến chế độ thủy văn ở lưu vực sông Mêcông và hậu quả mà chỉ tập trung khái quát các vấn đề về NBD, xâm nhập mặn do BĐKH ở ĐBSCL và đề xuất các phương hướng, giải pháp ứng phó, thích ứng. Chi tiết các vấn đề này đã được nêu trong báo cáo Đánh giá môi trường chiến lược (ĐMC) cho Quy hoạch vùng[4].
2. Phương pháp nghiên cứu
Để có cơ sở khoa học và thực tiễn đánh giá diễn biến BĐKH, các hậu quả do BĐKH đối với môi trường, phát triển KT-XH vùng ĐBSCL và đề xuất các phương hướng, giải pháp ứng phó và thích ứng các phương pháp sau đã được áp dụng.
2.1. Thu thập và phân tích tài liệu
Phần lớn các tài liệu, báo cáo khoa học về BĐKH và hậu quả đối với ĐBSCL, bao gồm cả các kịch bản về BĐKH, NBD cho Việt Nam của Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT), cập nhật năm 2020[5], các báo cáo của Ủy ban Liên Chính phủ về BĐKH (IPCC)[6], Ủy hội sông Mêcông (MRC)[7] và các nghiên cứu của các viện, tác giả trong, ngoài nước từ năm 2010 đến 2020[8] đã được thu thập và phân tích.
2.2. Tham vấn với các chuyên gia, đơn vị và tỉnh
Để đảm bảo các thông tin, nhận định về hậu quả do NBD, xâm nhập mặn và đề xuất các giải pháp ứng phó và thích ứng phù hợp với ĐBSCL trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã áp dụng rộng rãi phương pháp tham vấn qua 3 hội thảo lớn do Bộ KH&ĐT tổ chức ở nhiều tỉnh, thành phố với sự tham gia của nhiều bộ, ngành, viện, trường, chuyên gia môi trường, thủy lợi, KT-XH. Ngoài ra, 3 cuộc hội thảo chuyên đề về ĐMC, trong đó có các vấn đề môi trường chính và BĐKH với các chuyên gia cũng đã được tổ chức. Các ý kiến trong các hội thảo đã được tiếp thu về diễn biến BĐKH, NBD và các giải pháp giảm thiểu.
3. Tóm tắt một số kết quả ghi nhận
Từ kết quả thu thập, phân tích số liệu và tham vấn có thể nêu tóm tắt một số vấn đề về xu hướng NBD và các giải pháp thích ứng ở ĐBSCL như sau.
3.1. Kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho khu vực ĐBSCL đến 2030 tầm nhìn đến năm 2050
Kịch bản Biến đổi khí hậu, Phiên bản cập nhật năm 2020[9] đã nêu diễn biến nhiệt độ, diễn biến mưa các khu vực trong toàn quốc. Tuy nhiên trong bài này chúng tôi chỉ nêu tóm tắt các kịch bản về NBD và hậu quả đối với vùng ĐBSCL.
Bảng 1. Kịch bản nước biển dâng theo các kịch bản RCP cho khu vực Biển Đôn (Đơn vị: cm)
2. Phương pháp nghiên cứu
Để có cơ sở khoa học và thực tiễn đánh giá diễn biến BĐKH, các hậu quả do BĐKH đối với môi trường, phát triển KT-XH vùng ĐBSCL và đề xuất các phương hướng, giải pháp ứng phó và thích ứng các phương pháp sau đã được áp dụng.
2.1. Thu thập và phân tích tài liệu
Phần lớn các tài liệu, báo cáo khoa học về BĐKH và hậu quả đối với ĐBSCL, bao gồm cả các kịch bản về BĐKH, NBD cho Việt Nam của Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT), cập nhật năm 2020[5], các báo cáo của Ủy ban Liên Chính phủ về BĐKH (IPCC)[6], Ủy hội sông Mêcông (MRC)[7] và các nghiên cứu của các viện, tác giả trong, ngoài nước từ năm 2010 đến 2020[8] đã được thu thập và phân tích.
2.2. Tham vấn với các chuyên gia, đơn vị và tỉnh
Để đảm bảo các thông tin, nhận định về hậu quả do NBD, xâm nhập mặn và đề xuất các giải pháp ứng phó và thích ứng phù hợp với ĐBSCL trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã áp dụng rộng rãi phương pháp tham vấn qua 3 hội thảo lớn do Bộ KH&ĐT tổ chức ở nhiều tỉnh, thành phố với sự tham gia của nhiều bộ, ngành, viện, trường, chuyên gia môi trường, thủy lợi, KT-XH. Ngoài ra, 3 cuộc hội thảo chuyên đề về ĐMC, trong đó có các vấn đề môi trường chính và BĐKH với các chuyên gia cũng đã được tổ chức. Các ý kiến trong các hội thảo đã được tiếp thu về diễn biến BĐKH, NBD và các giải pháp giảm thiểu.
3. Tóm tắt một số kết quả ghi nhận
Từ kết quả thu thập, phân tích số liệu và tham vấn có thể nêu tóm tắt một số vấn đề về xu hướng NBD và các giải pháp thích ứng ở ĐBSCL như sau.
3.1. Kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng cho khu vực ĐBSCL đến 2030 tầm nhìn đến năm 2050
Kịch bản Biến đổi khí hậu, Phiên bản cập nhật năm 2020[9] đã nêu diễn biến nhiệt độ, diễn biến mưa các khu vực trong toàn quốc. Tuy nhiên trong bài này chúng tôi chỉ nêu tóm tắt các kịch bản về NBD và hậu quả đối với vùng ĐBSCL.
Bảng 1. Kịch bản nước biển dâng theo các kịch bản RCP cho khu vực Biển Đôn (Đơn vị: cm)
Kịch bản | Các mốc thời gian của Thế kỷ 21 | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|
2030 | 2040 | 2050 | 2060 | 2070 | 2080 | 2090 | 2100 | |
RCP2.6 | 14 (8 ÷ 19) | 20 (11 ÷ 26) | 25 (14 ÷ 33) | 30 (17 ÷ 41) | 34 (20 ÷ 48) | 38 (23 ÷ 55) | 42 (25 ÷ 62) | 46 (28 ÷ 70) |
RCP4.5 | 12 (8 ÷ 18) | 18 (11 ÷ 25) | 23 (14 ÷ 33) | 29 (18 ÷ 42) | 35 (22 ÷ 51) | 42 (26 ÷ 61) | 48 (30 ÷ 71) | 55 (34 ÷ 81) |
RCP8.5 | 14 (10 ÷ 19) | 20 (14 ÷ 27) | 28 (20 ÷ 37) | 34 (23 ÷ 47) | 43 (28 ÷ 59) | 52 (35 ÷ 72) | 64 (42 ÷ 88) | 77 (51 ÷ 106) |
Nguồn: Trích từ “Kịch bản Biến đổi khí hậu, Phiên bản cập nhật năm 2020”, Bộ TN&MT.
Ghi chú:
- Dữ liệu NBD so với mực nước biển trong giai đoạn cơ sở (1986 - 2005),
- Các phạm vi chỉ ra khoảng giữa các mức xác suất 5% và 95%,
Tại khu vực Biển Đông: Theo kịch bản RCP 4.5; Vào giữa Thế kỷ 21: mực nước biển dâng 23cm (14÷33), cuối Thế kỷ 21: mực nước biển dâng 55cm
(34÷81). Theo kịch bản RCP8.5: Vào giữa thế kỷ 21, mực nước biển có thể dâng 28cm
(20 ÷ 37), đến cuối Thế kỷ 21, mực nước biển dâng 77cm (51÷106).
Gia tăng mực nước biển dâng do BĐKH là một trong những thách thức lớn nhất đối với các tỉnh ven biển, nhất là vùng ĐBSCL. ĐBSCL là khu vực có nguy cơ ngập nước biển cao nhất cả nước. Bảng 2 dưới đây cho thấy: Nếu mực nước biển dâng 100 cm, sẽ có khoảng 47,29% diện tích toàn vùng có nguy cơ bị ngập, trong đó các tỉnh có tỷ lệ ngập lớn nhất là: Cần Thơ (55,82%), Hậu Giang (60,85%), Bạc Liêu (61,87%), Kiên Giang (75,68%), Cà Mau (79,62%).
Bảng 2: Nguy cơ ngập đối với khu vực ĐBSCL ứng với các mực nước biển dâng 50-100cm
(34÷81). Theo kịch bản RCP8.5: Vào giữa thế kỷ 21, mực nước biển có thể dâng 28cm
(20 ÷ 37), đến cuối Thế kỷ 21, mực nước biển dâng 77cm (51÷106).
Gia tăng mực nước biển dâng do BĐKH là một trong những thách thức lớn nhất đối với các tỉnh ven biển, nhất là vùng ĐBSCL. ĐBSCL là khu vực có nguy cơ ngập nước biển cao nhất cả nước. Bảng 2 dưới đây cho thấy: Nếu mực nước biển dâng 100 cm, sẽ có khoảng 47,29% diện tích toàn vùng có nguy cơ bị ngập, trong đó các tỉnh có tỷ lệ ngập lớn nhất là: Cần Thơ (55,82%), Hậu Giang (60,85%), Bạc Liêu (61,87%), Kiên Giang (75,68%), Cà Mau (79,62%).
Bảng 2: Nguy cơ ngập đối với khu vực ĐBSCL ứng với các mực nước biển dâng 50-100cm
Tỉnh/Thành phố | Tỷ lệ ngập (%) ứng với các mực nước biển dâng | |||||
---|---|---|---|---|---|---|
50cm | 60cm | 70cm | 80cm | 90cm | 100cm | |
Long An | 0,61 | 1,36 | 2,85 | 7,12 | 12,89 | 27,21 |
Tiền Giang | 3,79 | 6,71 | 12,58 | 25,23 | 37,57 | 47,80 |
Bến Tre | 6,74 | 10,19 | 15,11 | 21,46 | 27,83 | 35,11 |
Trà Vinh | 2,29 | 4,95 | 11,51 | 22,22 | 32,79 | 43,88 |
Vĩnh Long | 1,31 | 2,02 | 3,66 | 8,28 | 18,34 | 32,03 |
Đồng Tháp | 0,36 | 0,69 | 0,96 | 1,28 | 1,94 | 4,64 |
An Giang | 0,08 | 0,13 | 0,29 | 0,49 | 0,90 | 1,82 |
Kiên Giang | 36,82 | 48,85 | 57,18* | 66,16 | 71,69 | 75,68 |
Cần Thơ | 0,99 | 2,88 | 9,97 | 26,69 | 44,89 | 55,82 |
Hậu Giang | 18,83 | 29,37 | 38,50 | 45,88 | 53,21 | 60,85 |
Sóc Trăng | 11,32 | 14,97 | 20,25 | 26,91 | 33,13 | 55,41 |
Bạc Liêu | 20,08 | 27,78 | 36,84 | 46,31 | 54,38 | 61,87 |
Cà Mau | 40,31 | 48,05 | 56,81 | 64,42 | 73,58 | 79,62 |
Vùng ĐBSCL | 14,86 | 19,69 | 27,94 | 31,94 | 38,80 | 47,29% |
Nguồn: Trích từ “Kịch bản Biến đổi khí hậu, Phiên bản cập nhật năm 2020”, Bộ TN&MT.

Hình 1. Bản đồ nguy cơ ngập ứng với mực nước biển dâng 100 cm, Vùng ĐBSCL.
Nguồn: Trích từ “Kịch bản Biến đổi khí hậu, Phiên bản cập nhật năm 2020”, Bộ TN&MT.
Nguồn: Trích từ “Kịch bản Biến đổi khí hậu, Phiên bản cập nhật năm 2020”, Bộ TN&MT.
Như vậy, theo các Kịch bản RCP4.5, RCP8.5 (Bảng 1 ở trên) NBD có thể đạt 0,5m vào cuối TK21 và 1,0m sau năm 2100, trong khi Quy hoạch Vùng ĐBSCL chỉ đến năm 2050, khi đó độ ngập chỉ khoảng 20-37cm (theo Kịch bản RCP8.5, Bảng 1). Vì vậy, vùng bị ngập vào năm 2050 sẽ nhỏ hơn nhiều so với Bảng 2 và Hình 1 ở trên.
Tuy nhiên, NBD càng sẽ vấn đề nghiêm trọng ở Đồng bằng sông Cửu Long do kết hợp bởi sụt lún đất. Một nghiên cứu về sụt lún đất do INDRA-GISAT (2019) thực hiện dựa trên dữ liệu vệ tinh InSAR cho thấy các khu vực ở Đồng bằng sông Cửu Long có tốc độ sụt lún đất khác nhau: Trong giai đoạn 2014-2019 ở một số vị trí, tỷ lệ sụt lún đất trên 3 cm/năm, có nơi sụt lún đến 5 cm/năm. Tỷ lệ này cao hơn tỷ lệ sụt lún được đo đạc và mô hình hóa trước đây do khai thác nước ngầm và cao hơn 10 lần so với tốc độ nước biển dâng trung bình hàng năm hiện nay[10]. Dữ liệu và bản đồ chi tiết về sụt lún đất ở Đồng bằng sông Cửu Long của Bộ TN&MT[11] và các tác giả khác[12] đã được nêu trong báo cáo ĐMC.
Ngoài ra, cùng với gia tăng mức độ ngập, việc dâng cao mực nước biển sẽ gia tăng mạnh hiện tượng xâm nhập mặn vào các dòng chính và kênh rạch, gây mặn hóa nước, đất, thay đổi tính chất của hệ sinh thái tự nhiên của vùng và ảnh hưởng xấu đến cấp nước ngọt cho sinh hoạt, nông nghiệp, dịch vụ.
3.2. Các tác động chính do nước biển dâng có thể xẩy ra đối với môi trường và phát triển KT-XH vùng ĐBSCL
Nước biển dâng đang và sẽ dẫn đến các hậu quả nghiêm trọng về môi trường và phát triển KT-XH đối với ĐBSCL. Một số tác động chính được tóm tắt dưới đây.
Do địa hình thấp, bằng phẳng và ảnh hưởng triều cao vào các tháng trong mùa khô với lưu lượng các sông thấp xâm nhập mặn vào sâu trong cửa sông và vào các kênh rạch nội địa ĐBSCL. Đây là vùng bị xâm nhập mặn lớn và nghiêm trọng nhất cả nước. Xâm nhập mặn càng gia tăng do tác động ngày càng tăng của BĐKH và nước biển dâng. Ranh giới độ mặn 4%o (g/L) vào sâu nội địa đến 50 - 55km theo sông Tiền và 40 - 45km theo sông Hậu; phần lớn sông kênh ở bán đảo Cà Mau có độ mặn quanh năm trên 10%0. Hình 2 dưới đây cho thấy diễn biến xâm nhập mặn vào mùa khô ở ĐBSCL từ 1998 - 2016 và năm 2020 (qua đường đẳng mặn 4%0: Độ mặn tối đa cho canh tác lúa).
Tuy nhiên, NBD càng sẽ vấn đề nghiêm trọng ở Đồng bằng sông Cửu Long do kết hợp bởi sụt lún đất. Một nghiên cứu về sụt lún đất do INDRA-GISAT (2019) thực hiện dựa trên dữ liệu vệ tinh InSAR cho thấy các khu vực ở Đồng bằng sông Cửu Long có tốc độ sụt lún đất khác nhau: Trong giai đoạn 2014-2019 ở một số vị trí, tỷ lệ sụt lún đất trên 3 cm/năm, có nơi sụt lún đến 5 cm/năm. Tỷ lệ này cao hơn tỷ lệ sụt lún được đo đạc và mô hình hóa trước đây do khai thác nước ngầm và cao hơn 10 lần so với tốc độ nước biển dâng trung bình hàng năm hiện nay[10]. Dữ liệu và bản đồ chi tiết về sụt lún đất ở Đồng bằng sông Cửu Long của Bộ TN&MT[11] và các tác giả khác[12] đã được nêu trong báo cáo ĐMC.
Ngoài ra, cùng với gia tăng mức độ ngập, việc dâng cao mực nước biển sẽ gia tăng mạnh hiện tượng xâm nhập mặn vào các dòng chính và kênh rạch, gây mặn hóa nước, đất, thay đổi tính chất của hệ sinh thái tự nhiên của vùng và ảnh hưởng xấu đến cấp nước ngọt cho sinh hoạt, nông nghiệp, dịch vụ.
3.2. Các tác động chính do nước biển dâng có thể xẩy ra đối với môi trường và phát triển KT-XH vùng ĐBSCL
Nước biển dâng đang và sẽ dẫn đến các hậu quả nghiêm trọng về môi trường và phát triển KT-XH đối với ĐBSCL. Một số tác động chính được tóm tắt dưới đây.
Do địa hình thấp, bằng phẳng và ảnh hưởng triều cao vào các tháng trong mùa khô với lưu lượng các sông thấp xâm nhập mặn vào sâu trong cửa sông và vào các kênh rạch nội địa ĐBSCL. Đây là vùng bị xâm nhập mặn lớn và nghiêm trọng nhất cả nước. Xâm nhập mặn càng gia tăng do tác động ngày càng tăng của BĐKH và nước biển dâng. Ranh giới độ mặn 4%o (g/L) vào sâu nội địa đến 50 - 55km theo sông Tiền và 40 - 45km theo sông Hậu; phần lớn sông kênh ở bán đảo Cà Mau có độ mặn quanh năm trên 10%0. Hình 2 dưới đây cho thấy diễn biến xâm nhập mặn vào mùa khô ở ĐBSCL từ 1998 - 2016 và năm 2020 (qua đường đẳng mặn 4%0: Độ mặn tối đa cho canh tác lúa).

Hình 2: Sơ đồ xâm nhập mặn vào mùa khô ở ĐBSCL giai đoạn 1998 - 2016 và 2020.
Nguồn: Royal HaskoningDHV - GIZ, MDIRP, Baseline Report, 2020.
Nguồn: Royal HaskoningDHV - GIZ, MDIRP, Baseline Report, 2020.
Trong các năm gần đây xâm nhập mặn trong mùa khô 2015 - 2016 cao hơn các năm trước. Tuy nhiên trong năm 2020 xâm nhập mặn còn tăng cao hơn: Tổng lượng dòng chảy tới vùng ĐBSCL qua hai trạm thủy văn Tân Châu và Châu Đốc bị sụt giảm tới 13% so với trung bình nhiều năm và thấp hơn tổng lượng dòng chảy tháng 2/2016 khoảng 5% nên xâm nhập mặn trong tháng 3/2020 tăng mạnh[13]. Kết hợp với xu hướng nước biển dâng ngày càng cao mức độ xâm nhập mặn vào các sông ngày càng lớn, diện tích đất nhiễm mặn ngày càng tăng. Cụ thể, với ranh mặn 4g/L tại các sông Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây với phạm vi ảnh hưởng sâu từ 95-100 km, sâu hơn trung bình nhiều năm lớn nhất từ 15-20 km, sâu hơn cùng kỳ năm 2016 từ 4 - 6 km so với mức sâu nhất năm 2016 (năm có mức hạn, mặn cao nhất từ trước đến nay). Sông Cổ Chiên có phạm vi ảnh hưởng khoảng 68 km, sâu hơn trung bình nhiều năm lớn nhất 24 km, sâu hơn cùng kỳ năm 2016 khoảng 3 km, sâu hơn khoảng 3km so với mức sâu nhất năm 2016. Sông Hậu có phạm vi ảnh hưởng sâu khoảng 66 km, sâu hơn cùng kỳ năm 2016 khoảng 6 km, sâu hơn khoảng 6 km so với mức sâu nhất năm 2016[14].
Mặn hóa môi trường nước và đất đai đang và sẽ dẫn đến:
- Thiếu nước ngọt cho sinh hoạt: gây tăng chi phí cấp nước, gia tăng khai thác nước dưới đất dẫn tới cạn kiệt nguồn nước này và tăng nhanh quá trình sụt lún đất. Sụt lún đất là vấn đề nghiêm trọng của ĐBSCL (đã nêu trong Mục 3.1 ở trên).
- Thiếu nước ngọt cho sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, thủy sản nước ngọt, công nghiệp, dịch vụ….gây suy giảm các ngành này, ảnh hưởng xấu đến thu nhập, văn hóa, xã hội; gia tăng nghèo khó, dẫn đến gia tăng di dân (xuất cư) và làm ĐBSCL tụt hậu về mọi mặt so với nhiều vùng trong nước.
- Gia tăng xâm nhập mặn tác động đến hầu như toàn bộ vùng quy hoạch tôm nước lợ. Những vùng nuôi thủy sản ở ven biển Bến Tre, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang chịu ảnh hưởng nhiều nhất, có thể dẫn đến nguy cơ phá vỡ các quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản ven biển (Minh chứng: Năm 2015, diện tích nuôi tôm bị thiệt hại khoảng 3.771ha, riêng Cà Mau chiếm khoảng 2.700ha. Một số địa phương có nhiều mô hình được đánh giá là bền vững như tôm - lúa, tôm quảng canh, quảng canh cải tiến cũng bị thiệt hại nặng do tăng độ mặn[15]).
- Mặn hóa đất đai: gây giảm năng suất cây trồng, tăng chi phí sản xuất, giảm thu nhập.
- Tăng chi phí, đầu tư cho các công trình “kiểm soát mặn” hiện nay đã được đầu tư rất lớn ở ĐBSCL và sẽ còn tăng chi phí cho các công trình này trong nhiều thập kỷ tới.
- Hư hỏng công trình, thiết bị do môi trường mặn. v.v…
Tích hợp các tác động tiêu cực trên: ĐBSCL sẽ khó đạt các mục tiêu phát triển do Quy hoạch vùng đề xuất đã được Chính phủ phê duyệt, hậu quả sẽ là tụt hậu so với nhiều vùng kinh tế khác.
3.3. Các giải pháp giảm nhẹ hậu quả, thích ứng với nước biển dâng và xâm nhập mặn đối với đồng bằng sông Cửu Long
Mặn hóa môi trường nước và đất đai đang và sẽ dẫn đến:
- Thiếu nước ngọt cho sinh hoạt: gây tăng chi phí cấp nước, gia tăng khai thác nước dưới đất dẫn tới cạn kiệt nguồn nước này và tăng nhanh quá trình sụt lún đất. Sụt lún đất là vấn đề nghiêm trọng của ĐBSCL (đã nêu trong Mục 3.1 ở trên).
- Thiếu nước ngọt cho sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, thủy sản nước ngọt, công nghiệp, dịch vụ….gây suy giảm các ngành này, ảnh hưởng xấu đến thu nhập, văn hóa, xã hội; gia tăng nghèo khó, dẫn đến gia tăng di dân (xuất cư) và làm ĐBSCL tụt hậu về mọi mặt so với nhiều vùng trong nước.
- Gia tăng xâm nhập mặn tác động đến hầu như toàn bộ vùng quy hoạch tôm nước lợ. Những vùng nuôi thủy sản ở ven biển Bến Tre, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang chịu ảnh hưởng nhiều nhất, có thể dẫn đến nguy cơ phá vỡ các quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản ven biển (Minh chứng: Năm 2015, diện tích nuôi tôm bị thiệt hại khoảng 3.771ha, riêng Cà Mau chiếm khoảng 2.700ha. Một số địa phương có nhiều mô hình được đánh giá là bền vững như tôm - lúa, tôm quảng canh, quảng canh cải tiến cũng bị thiệt hại nặng do tăng độ mặn[15]).
- Mặn hóa đất đai: gây giảm năng suất cây trồng, tăng chi phí sản xuất, giảm thu nhập.
- Tăng chi phí, đầu tư cho các công trình “kiểm soát mặn” hiện nay đã được đầu tư rất lớn ở ĐBSCL và sẽ còn tăng chi phí cho các công trình này trong nhiều thập kỷ tới.
- Hư hỏng công trình, thiết bị do môi trường mặn. v.v…
Tích hợp các tác động tiêu cực trên: ĐBSCL sẽ khó đạt các mục tiêu phát triển do Quy hoạch vùng đề xuất đã được Chính phủ phê duyệt, hậu quả sẽ là tụt hậu so với nhiều vùng kinh tế khác.
3.3. Các giải pháp giảm nhẹ hậu quả, thích ứng với nước biển dâng và xâm nhập mặn đối với đồng bằng sông Cửu Long
Các phương hướng và giải pháp chi tiết về giảm nhẹ và thích ứng với BĐKH đã được đề xuất trong các báo cáo Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến 2050[16] và Báo cáo ĐMC cho Quy hoạch này[17]. Dưới đây là tóm tắt một số phương hướng và giải pháp chính.
3.3.1. Các phương hướng và giải pháp thích ứng
3.3.1. Các phương hướng và giải pháp thích ứng
Tác động do BĐKH, nước biển dâng và tác động từ sự phát triển thượng nguồn sông Mêcông là không thể tránh khỏi trong hiện tại và tương lai. Vì vậy, Quy hoạch Vùng ĐBSCL thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến 2050 lần đầu tiên đã định hướng quan điểm phát triển rất khoa học và thực tế: “Tôn trọng quy luật tự nhiên, tránh can thiệp thô bạo vào tự nhiên; chọn mô hình thích ứng theo tự nhiên, thân thiện với môi trường, bảo tồn ĐDSH và phát triển bền vững với phương châm chủ động sống chung với lũ, ngập, nước lợ, nước mặn; xây dựng các kịch bản và có giải pháp ứng phó hiệu quả với thiên tai như bão, lũ, hạn hán và xâm nhập mặn, với các tình huống bất lợi nhất do BĐKH và phát triển thượng nguồn sông Mêcông”[18].
Dưới đây là tóm tắt các phương hướng thích ứng với tác động của BĐKH hiện nay và trong tương lai đã được nghiên cứu ĐMC và Quy hoạch Vùng đề xuất.
a. UBND các tỉnh, thành phố cần xây dựng và thực hiện Kế hoạch hành động thích ứng BĐKH (trong đó chú trọng thích ứng nước biển dâng, xâm nhập mặn) cấp tỉnh đến năm 2030 sau khi Kế hoạch thích ứng quốc gia được phê duyệt.
b. Các cơ quan chức năng cần xây dựng và nhân rộng mô hình sản xuất nông nghiệp, nuôi thủy sản và các công nghệ giúp thích ứng với xâm nhập mặn và các tác động khác của BĐKH.
c. Tái cơ cấu ngành nông nghiệp nhằm thích ứng tốt hơn với BĐKH:
- Ở vùng chuyển tiếp ngọt - lợ: Chuyển từ tình trạng tiếp cận nước ngọt phục vụ trồng lúa là chủ yếu sang hệ thống cung cấp nước lợ sạch cho nuôi thủy sản và nước ngọt cho sinh hoạt, sản xuất, kinh doanh;
- Ở các vùng nước lợ - mặn quanh năm (vùng ven biển): Chuyển sang nuôi thủy sản, tận dụng lợi ích từ khả năng tiếp cận biển và cửa sông;
- Ở vùng nước ngọt quanh năm: Chuyển đổi theo hướng tăng khả năng giữ nước lũ và quản lý vận hành cho phép cơ cấu cây trồng ứng phó với lũ đến muộn và tình trạng thiếu nước vào mùa khô.
d. Sản xuất nông nghiệp và nuôi thủy sản ở các tiểu vùng trong ĐBSCL phải thích ứng với các thay đổi tất yếu của khí hậu và gia tăng xâm nhập mặn;
đ. Cần giữ nước lũ, thu gom và lưu trữ nước mưa và nước mặt trên toàn ĐBSCL, lưu trữ trong các khu vực có thể, đáp ứng nhu cầu nước ngọt cho sinh hoạt, công nghiệp và nông nghiệp trong mọi thời điểm.
e. Phát triển hệ thống quản lý nước với các công trình thủy lợi như đê sông, đê biển, cống, cửa cống, cầu và âu tàu ở mỗi khu vực phải thích ứng với BĐKH và tác động của việc xây dựng đập thượng nguồn và các hoạt động kinh tế ở ĐBSCL;
g. Hạ tầng thủy lợi ĐBSCL phải được quản lý, điều phối trên toàn vùng, đặc biệt trong những trường hợp cực đoan. Quản lý vận hành cấp vùng toàn bộ hệ thống và công trình thủy lợi đòi hỏi phải xây dựng các quy tắc để ứng phó với hạn hán cực đoan và xâm nhập mặn, lũ sông, bão và nước dâng do bão. Các quy tắc quản lý vận hành được điều phối trên toàn Vùng phải được thiết lập.
h. Nghiên cứu quy hoạch xây dựng thích ứng và xây dựng hạ tầng đô thị thích ứng với tác động của BĐKH, NBD.
i. Tăng cường nâng cao nhận thức và kiến thức của lãnh đạo các cấp, doanh nghiệp và người dân về các rủi ro và biện pháp thích ứng với các hiện tượng khí hậu cực đoan, NBD.
k. Tăng cường hợp tác với các chương trình phát triển lưu vực, phát triển thủy điện, thủy sản, rừng, sử dụng nước, quản lý chất lượng nước, kiểm soát và giám sát lũ...) của Ủy hội sông Mêcông và Tiểu vùng Mêcông mở rộng (GMR).
3.3.2. Các phương hướng và giải pháp giảm nhẹ
3.3.2.1. Các phương hướng và giải pháp chung
Các giải pháp chung về giảm nhẹ tác động do BĐKH, NBD, xâm nhập mặn được nêu trong Báo cáo Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050[19] được tóm tắt dưới đây.
a. Xây dựng và thực hiện các chương trình/dự án ứng phó với thiên tai và BĐKH và tăng trưởng xanh, bao gồm xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng/công trình kiểm soát mặn.
b. Tập trung gia cố hệ thống đê, nạo vét kênh mương, tăng khả năng chủ động kiểm soát lũ, kết hợp nghiên cứu giải pháp trữ nước lũ vùng ngập sâu để phục vụ cấp nước mùa khô và các mục đích khác.
c. Xây dựng kết cấu hạ tầng kiểm soát ngập úng do triều và kiểm soát mặn (không ngăn mặn) khu vực cửa sông và ven biển, bao gồm hệ thống đê sông/biển kết nối với đường bộ và cống kiểm soát triều.
d. Xây dựng hồ chứa phân tán để tích trữ nước ngọt và đáp ứng nhu cầu nguồn nước của các ngành kinh tế.
đ. Xây dựng hệ thống cấp nước sinh hoạt, chăn nuôi và công nghiệp trong bối cảnh BĐKH, bao gồm hệ thống vận chuyển nước thô từ các khu vực thượng nguồn cho các vùng ven biển và xây dựng bể chứa, hệ thống khử mặn tại các nhà máy cấp nước quy mô nhỏ không tập trung.
e. Quy hoạch và xây dựng hệ thống đê bao và thoát nước tại các thành phố, thị xã, thị trấn nhằm đảm bảo kiểm soát ngập do lũ và triều cường, tính đến tác động của BĐKH và nước biển dâng.
g. Ngăn chặn phá rừng và suy thoái rừng; trồng mới, bảo vệ rừng tràm nội địa, đặc biệt là rừng ngập mặn ven biển. Xây dựng vành đai sinh thái ven biển từ Cà Mau đến Cần Giờ, trong đó đảm bảo độ dầy của giải rừng ngập mặn trên 500m (ở khu vực có thể).
h. Xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo sớm đối với các rủi ro thiên tai bao gồm bão, lũ, hạn hán và xâm nhập mặn.
3.3.2.2. Một số phương hướng, giải pháp chuyên ngành
Dưới đây là tóm tắt các phương hướng thích ứng với tác động của BĐKH hiện nay và trong tương lai đã được nghiên cứu ĐMC và Quy hoạch Vùng đề xuất.
a. UBND các tỉnh, thành phố cần xây dựng và thực hiện Kế hoạch hành động thích ứng BĐKH (trong đó chú trọng thích ứng nước biển dâng, xâm nhập mặn) cấp tỉnh đến năm 2030 sau khi Kế hoạch thích ứng quốc gia được phê duyệt.
b. Các cơ quan chức năng cần xây dựng và nhân rộng mô hình sản xuất nông nghiệp, nuôi thủy sản và các công nghệ giúp thích ứng với xâm nhập mặn và các tác động khác của BĐKH.
c. Tái cơ cấu ngành nông nghiệp nhằm thích ứng tốt hơn với BĐKH:
- Ở vùng chuyển tiếp ngọt - lợ: Chuyển từ tình trạng tiếp cận nước ngọt phục vụ trồng lúa là chủ yếu sang hệ thống cung cấp nước lợ sạch cho nuôi thủy sản và nước ngọt cho sinh hoạt, sản xuất, kinh doanh;
- Ở các vùng nước lợ - mặn quanh năm (vùng ven biển): Chuyển sang nuôi thủy sản, tận dụng lợi ích từ khả năng tiếp cận biển và cửa sông;
- Ở vùng nước ngọt quanh năm: Chuyển đổi theo hướng tăng khả năng giữ nước lũ và quản lý vận hành cho phép cơ cấu cây trồng ứng phó với lũ đến muộn và tình trạng thiếu nước vào mùa khô.
d. Sản xuất nông nghiệp và nuôi thủy sản ở các tiểu vùng trong ĐBSCL phải thích ứng với các thay đổi tất yếu của khí hậu và gia tăng xâm nhập mặn;
đ. Cần giữ nước lũ, thu gom và lưu trữ nước mưa và nước mặt trên toàn ĐBSCL, lưu trữ trong các khu vực có thể, đáp ứng nhu cầu nước ngọt cho sinh hoạt, công nghiệp và nông nghiệp trong mọi thời điểm.
e. Phát triển hệ thống quản lý nước với các công trình thủy lợi như đê sông, đê biển, cống, cửa cống, cầu và âu tàu ở mỗi khu vực phải thích ứng với BĐKH và tác động của việc xây dựng đập thượng nguồn và các hoạt động kinh tế ở ĐBSCL;
g. Hạ tầng thủy lợi ĐBSCL phải được quản lý, điều phối trên toàn vùng, đặc biệt trong những trường hợp cực đoan. Quản lý vận hành cấp vùng toàn bộ hệ thống và công trình thủy lợi đòi hỏi phải xây dựng các quy tắc để ứng phó với hạn hán cực đoan và xâm nhập mặn, lũ sông, bão và nước dâng do bão. Các quy tắc quản lý vận hành được điều phối trên toàn Vùng phải được thiết lập.
h. Nghiên cứu quy hoạch xây dựng thích ứng và xây dựng hạ tầng đô thị thích ứng với tác động của BĐKH, NBD.
i. Tăng cường nâng cao nhận thức và kiến thức của lãnh đạo các cấp, doanh nghiệp và người dân về các rủi ro và biện pháp thích ứng với các hiện tượng khí hậu cực đoan, NBD.
k. Tăng cường hợp tác với các chương trình phát triển lưu vực, phát triển thủy điện, thủy sản, rừng, sử dụng nước, quản lý chất lượng nước, kiểm soát và giám sát lũ...) của Ủy hội sông Mêcông và Tiểu vùng Mêcông mở rộng (GMR).
3.3.2. Các phương hướng và giải pháp giảm nhẹ
3.3.2.1. Các phương hướng và giải pháp chung
Các giải pháp chung về giảm nhẹ tác động do BĐKH, NBD, xâm nhập mặn được nêu trong Báo cáo Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050[19] được tóm tắt dưới đây.
a. Xây dựng và thực hiện các chương trình/dự án ứng phó với thiên tai và BĐKH và tăng trưởng xanh, bao gồm xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng/công trình kiểm soát mặn.
b. Tập trung gia cố hệ thống đê, nạo vét kênh mương, tăng khả năng chủ động kiểm soát lũ, kết hợp nghiên cứu giải pháp trữ nước lũ vùng ngập sâu để phục vụ cấp nước mùa khô và các mục đích khác.
c. Xây dựng kết cấu hạ tầng kiểm soát ngập úng do triều và kiểm soát mặn (không ngăn mặn) khu vực cửa sông và ven biển, bao gồm hệ thống đê sông/biển kết nối với đường bộ và cống kiểm soát triều.
d. Xây dựng hồ chứa phân tán để tích trữ nước ngọt và đáp ứng nhu cầu nguồn nước của các ngành kinh tế.
đ. Xây dựng hệ thống cấp nước sinh hoạt, chăn nuôi và công nghiệp trong bối cảnh BĐKH, bao gồm hệ thống vận chuyển nước thô từ các khu vực thượng nguồn cho các vùng ven biển và xây dựng bể chứa, hệ thống khử mặn tại các nhà máy cấp nước quy mô nhỏ không tập trung.
e. Quy hoạch và xây dựng hệ thống đê bao và thoát nước tại các thành phố, thị xã, thị trấn nhằm đảm bảo kiểm soát ngập do lũ và triều cường, tính đến tác động của BĐKH và nước biển dâng.
g. Ngăn chặn phá rừng và suy thoái rừng; trồng mới, bảo vệ rừng tràm nội địa, đặc biệt là rừng ngập mặn ven biển. Xây dựng vành đai sinh thái ven biển từ Cà Mau đến Cần Giờ, trong đó đảm bảo độ dầy của giải rừng ngập mặn trên 500m (ở khu vực có thể).
h. Xây dựng hệ thống dự báo, cảnh báo sớm đối với các rủi ro thiên tai bao gồm bão, lũ, hạn hán và xâm nhập mặn.
3.3.2.2. Một số phương hướng, giải pháp chuyên ngành
a. Phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng giảm nhẹ hậu quả NBD, xâm nhập mặn
Với vùng nước ngọt
Với vùng nước ngọt
Vùng này ít chịu tác động do NBD, xâm nhập mặn nên chỉ đề xuất các phương hướng, giải pháp về chủ động kiểm soát lũ, phòng chống sạt lở bờ sông và các giải pháp trữ nước, tiêu thoát nước…
Với vùng chuyển tiếp ngọt lợ
Với vùng chuyển tiếp ngọt lợ
Hoàn thiện hệ thống công trình thuỷ lợi để chủ động cấp nước, kiểm soát mặn và đảm bảo liên thông trao đổi nước, kiểm soát ô nhiễm; đầu tư các công trình phòng chống sạt lở bờ sông, kênh rạch, công trình điều tiết, nạo vét các trục kênh để chủ động trữ nước đáp ứng yêu cầu phục vụ phát triển kinh tế, xã hội; đầu tư các công trình chuyển nước ngọt cho vùng chuyển tiếp và vùng ven biển …..
Với vùng nước mặn lợ quanh năm
Với vùng nước mặn lợ quanh năm
Hoàn thiện hệ thống công trình thuỷ lợi để chủ động cấp nước, kiểm soát mặn và đảm bảo tuần hoàn nước phục vụ sản xuất, nuôi thủy sản; không khai thác nước dưới đất cho nuôi thuỷ sản; đầu tư xây dựng củng cố, nâng cấp các tuyến đê biển, đê sông, đê cửa sông, bờ bao, hệ thống kè giảm sóng gây bồi kết hợp với trồng rừng bảo vệ bờ biển;; đầu tư các công trình chuyển nước ngọt cho vùng ven biển để phục vụ cho cấp nước công nghiệp và dân sinh; nâng cấp và xây dựng hệ thống đê bao và hệ thống thoát nước bảo vệ các đô thị khỏi bị ảnh hưởng do ngập triều; kiểm soát sụt lún đất.
b. Quản lý ngập triều, nước biển dâng và xói lở bờ biển
(i) Thiết kế và triển khai các công trình thủy lợi để hỗ trợ sản xuất, đặc biệt là nuôi thủy sản nước lợ, nước mặn và đảm bảo an toàn cho cộng đồng trước ngập triều.
(ii) Hoàn thiện, nâng cấp và bảo trì đê biển và cửa cống phù hợp với điều kiện môi trường từng khu vực.
(iii) Xây dựng và vận hành các kênh phù hợp cho nuôi thủy sản nước lợ, nước mặn ở các khu vực bên trong đê biển; tách kênh dẫn nước sạch và kênh thoát nước thải từ khu vực nuôi thủy sản.
(iv) Xây dựng hệ thống cống điều khiển dòng mặn, ngọt thích hợp trên hệ thống kênh trục, sông cụt,.. biến lòng dẫn của chúng thành hệ thống hồ chứa nước hoạt động “lưu động theo thời gian và nhịp điệu của từng con triều” để kiểm soát mặn, tích nước ngọt.
(v) Phục hồi, trồng mới, bảo vệ vành đai rừng ngập mặn bên ngoài đê biển, với mật độ và chiều cao phù hợp để làm giảm sóng do thủy triều và bão. Bảo tồn và mở rộng diện tích rừng ngập mặn ở các tỉnh ven biển từ Tiền Giang đến Cà Mau; đảm bảo phục hồi dải rừng ngập mặn ven biển với độ rộng trên 500m ở các khu vực đã từng là rừng ngập mặn.
(vi) Lập các công trình chắn sóng để ngăn ngừa xói lở bờ Biển Đông và Biển Tây; tăng cường các biện pháp lắng đọng trầm tích, bảo vệ đê biển.
(vii) Ở các khu vực có nguy cơ cao: cần thực hiện chương trình di dời sớm và sắp xếp lại các khu dân cư để ngăn ngừa hậu quả do ngập triều cực đoan, nước dâng và rủi ro do xói lở bờ sông, bờ biển.
4. Kết luận
1. ĐBSCL là vùng nông nghiệp quan trọng nhất cả nước, tuy nhiên hiện nay vẫn là vùng hạn chế phát triển. Ngoài các nguyên nhân chủ quan, các tác động tiêu cực do BĐKH làm gia tăng khô hạn, nhất là gia tăng mực NBD dẫn đến gia tăng xâm nhập mặn, ngập nước biển đang và sẽ là các nguyên nhân quan trọng, lâu dài. Các tác động này càng nghiêm trọng đến môi trường và phát triển KT-XH của vùng khi kết hợp với sự suy giảm dòng chảy và phù sa sông Mêcông do phát triển các công trình thủy điện ở các quốc gia thượng lưu.
2. Tác động do BĐKH, tác động từ sự phát triển thượng nguồn sông Mêcông, cũng như tác động của sự phát triển bên trong ĐBSCL là không thể tránh khỏi và ngày càng nghiêm trọng vì vậy thích ứng với các tác động tiêu cực này là yêu cầu cấp thiết đối với ĐBSCL. Phương châm thích ứng có tính khoa học, thực tiễn đối với vùng này là: “Phát triển thuận thiên”, “Chủ động thích ứng với lũ lụt, khô hạn", "Sống chung với nước lợ và nước mặn”.
3. Vì vậy, nghiên cứu chuyển đổi các hệ thống sản xuất ở ĐBSCL; xây dựng và nhân rộng mô hình sản xuất nông nghiệp, nuôi thủy sản và các công nghệ giúp thích ứng với xâm nhập mặn và các tác động khác của BĐKH là phương hướng cần thực hiện.
4. Ngoài ra, để giảm nhẹ tác do BĐKH, NBD xây dựng và thực hiện các chương trình/dự án ứng phó với thiên tai do gia tăng BĐKH, nhất là xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng/công trình kiểm soát mặn, trữ nước ngọt, kiểm soát ngập úng, bảo vệ bờ biển, các đô thị, khu dân cư phù hợp với từng tiểu vùng môi trường là nhiệm vụ cần được các cơ quan chức năng các cấp thực hiện hiệu quả.
5. Bảo vệ và tăng cường trồng rừng, tăng nhanh diện tích rừng, nhất là rừng ngập mặn ven biển là giải pháp đặc biệt quan trọng không chỉ tăng cường cải thiện chất lượng môi trường, kiểm soát ô nhiễm, bảo tồn da dạng sinh học mà còn đảm bảo ngăn ngừa, giảm nhẹ các tác động do nước biển dâng, xói lở bờ biển, cửa sông, sụt lún đất.
6. Xây dựng và phát triển các mô hình tăng trưởng xanh, trong đó ưu tiên giảm phát thải khí nhà kính bằng cách chuyển phần lớn các dự án nhiệt điện chạy than sang sử dụng khí, năng lượng tái tạo; giảm diện tích lúa, tiết kiệm nhiên liệu…cũng là định hướng quan trọng nhằm giảm nhẹ tác động đến BĐKH.
Tài liệu tham khảo
1. Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam,12/02/2020.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo cáo Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Tư vấn: Liên danh HaskoningDHV Nederland B.V – GIZ, Bản cuối, 11/2021.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo cáo ĐMC Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Tư vấn: Liên danh HaskoningDHV Nederland B.V – GIZ, 12/2021.
4. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Kịch bản Biến đổi khí hậu, Phiên bản cập nhật năm 2020.
5. Ủy ban Liên Chính phủ về BĐKH (IPCC), Báo cáo Đánh giá lần thứ 5 về BĐKH toàn cầu (AR5), 2013.
6. JV HaskoningDHV Nederland B.V – GIZ, MDIRP, Baseline Report, Feb. 2020.
7. Mekong River Commision, Website, Climate Change.
b. Quản lý ngập triều, nước biển dâng và xói lở bờ biển
(i) Thiết kế và triển khai các công trình thủy lợi để hỗ trợ sản xuất, đặc biệt là nuôi thủy sản nước lợ, nước mặn và đảm bảo an toàn cho cộng đồng trước ngập triều.
(ii) Hoàn thiện, nâng cấp và bảo trì đê biển và cửa cống phù hợp với điều kiện môi trường từng khu vực.
(iii) Xây dựng và vận hành các kênh phù hợp cho nuôi thủy sản nước lợ, nước mặn ở các khu vực bên trong đê biển; tách kênh dẫn nước sạch và kênh thoát nước thải từ khu vực nuôi thủy sản.
(iv) Xây dựng hệ thống cống điều khiển dòng mặn, ngọt thích hợp trên hệ thống kênh trục, sông cụt,.. biến lòng dẫn của chúng thành hệ thống hồ chứa nước hoạt động “lưu động theo thời gian và nhịp điệu của từng con triều” để kiểm soát mặn, tích nước ngọt.
(v) Phục hồi, trồng mới, bảo vệ vành đai rừng ngập mặn bên ngoài đê biển, với mật độ và chiều cao phù hợp để làm giảm sóng do thủy triều và bão. Bảo tồn và mở rộng diện tích rừng ngập mặn ở các tỉnh ven biển từ Tiền Giang đến Cà Mau; đảm bảo phục hồi dải rừng ngập mặn ven biển với độ rộng trên 500m ở các khu vực đã từng là rừng ngập mặn.
(vi) Lập các công trình chắn sóng để ngăn ngừa xói lở bờ Biển Đông và Biển Tây; tăng cường các biện pháp lắng đọng trầm tích, bảo vệ đê biển.
(vii) Ở các khu vực có nguy cơ cao: cần thực hiện chương trình di dời sớm và sắp xếp lại các khu dân cư để ngăn ngừa hậu quả do ngập triều cực đoan, nước dâng và rủi ro do xói lở bờ sông, bờ biển.
4. Kết luận
1. ĐBSCL là vùng nông nghiệp quan trọng nhất cả nước, tuy nhiên hiện nay vẫn là vùng hạn chế phát triển. Ngoài các nguyên nhân chủ quan, các tác động tiêu cực do BĐKH làm gia tăng khô hạn, nhất là gia tăng mực NBD dẫn đến gia tăng xâm nhập mặn, ngập nước biển đang và sẽ là các nguyên nhân quan trọng, lâu dài. Các tác động này càng nghiêm trọng đến môi trường và phát triển KT-XH của vùng khi kết hợp với sự suy giảm dòng chảy và phù sa sông Mêcông do phát triển các công trình thủy điện ở các quốc gia thượng lưu.
2. Tác động do BĐKH, tác động từ sự phát triển thượng nguồn sông Mêcông, cũng như tác động của sự phát triển bên trong ĐBSCL là không thể tránh khỏi và ngày càng nghiêm trọng vì vậy thích ứng với các tác động tiêu cực này là yêu cầu cấp thiết đối với ĐBSCL. Phương châm thích ứng có tính khoa học, thực tiễn đối với vùng này là: “Phát triển thuận thiên”, “Chủ động thích ứng với lũ lụt, khô hạn", "Sống chung với nước lợ và nước mặn”.
3. Vì vậy, nghiên cứu chuyển đổi các hệ thống sản xuất ở ĐBSCL; xây dựng và nhân rộng mô hình sản xuất nông nghiệp, nuôi thủy sản và các công nghệ giúp thích ứng với xâm nhập mặn và các tác động khác của BĐKH là phương hướng cần thực hiện.
4. Ngoài ra, để giảm nhẹ tác do BĐKH, NBD xây dựng và thực hiện các chương trình/dự án ứng phó với thiên tai do gia tăng BĐKH, nhất là xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng/công trình kiểm soát mặn, trữ nước ngọt, kiểm soát ngập úng, bảo vệ bờ biển, các đô thị, khu dân cư phù hợp với từng tiểu vùng môi trường là nhiệm vụ cần được các cơ quan chức năng các cấp thực hiện hiệu quả.
5. Bảo vệ và tăng cường trồng rừng, tăng nhanh diện tích rừng, nhất là rừng ngập mặn ven biển là giải pháp đặc biệt quan trọng không chỉ tăng cường cải thiện chất lượng môi trường, kiểm soát ô nhiễm, bảo tồn da dạng sinh học mà còn đảm bảo ngăn ngừa, giảm nhẹ các tác động do nước biển dâng, xói lở bờ biển, cửa sông, sụt lún đất.
6. Xây dựng và phát triển các mô hình tăng trưởng xanh, trong đó ưu tiên giảm phát thải khí nhà kính bằng cách chuyển phần lớn các dự án nhiệt điện chạy than sang sử dụng khí, năng lượng tái tạo; giảm diện tích lúa, tiết kiệm nhiên liệu…cũng là định hướng quan trọng nhằm giảm nhẹ tác động đến BĐKH.
Tài liệu tham khảo
1. Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam,12/02/2020.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo cáo Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Tư vấn: Liên danh HaskoningDHV Nederland B.V – GIZ, Bản cuối, 11/2021.
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo cáo ĐMC Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Tư vấn: Liên danh HaskoningDHV Nederland B.V – GIZ, 12/2021.
4. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Kịch bản Biến đổi khí hậu, Phiên bản cập nhật năm 2020.
5. Ủy ban Liên Chính phủ về BĐKH (IPCC), Báo cáo Đánh giá lần thứ 5 về BĐKH toàn cầu (AR5), 2013.
6. JV HaskoningDHV Nederland B.V – GIZ, MDIRP, Baseline Report, Feb. 2020.
7. Mekong River Commision, Website, Climate Change.
[1] Koos Neefjes, Chuyên gia Biến đổi khí hậu, Tổ chuyên gia quốc tế lập Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
[2] Lê Trình, PGSTS, Tổ trưởng Tổ chuyên gia quốc tế lập ĐMC Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
[3] Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo cáo Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Tư vấn: Liên danh HaskoningDHV Nederland B.V – GIZ, 11/2021.
[4] Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo cáo ĐMC Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Tư vấn: Liên danh Royal HaskoningDHV – GIZ, Bản cuối 12/2021.
[5] Bộ Tài nguyên và Môi trường, Kịch bản Biến đổi khí hậu, Phiên bản cập nhật năm 2020.
[6] Ủy ban Liên Chính phủ về BĐKH (IPCC), Báo cáo Đánh giá lần thứ 5 về BĐKH toàn cầu (AR5), 2013.
[7] MRC Website, Climate Change.
[8] a. Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam, báo cáo “ĐBSCL trước các thách thức BĐKH, phát triển thượng lưu, lún sụt đất và định hướng các giải pháp thích ứng”, Hội thảo Cần Thơ, 19/11/2020; b. JV HaskoningDHV Nederland B.V – GIZ, Baseline Report, Climate Change, Feb. 2020.
[9] Bộ Tài nguyên và Môi trường, Kịch bản Biến đổi khí hậu, Phiên bản cập nhật năm 2020.
[10] INDRA-GISAT, 2019 (JV HaskoningDHV Nederland B.V – GIZ, Baseline Report, Feb. 2020).
[11] Cục Quản lý Tài nguyên nước - Bộ TN&MT, Báo cáo về quản lý tài nguyên nước và giải pháp ứng phó với sụt lún khu vực TP. Hồ Chí Minh và vùng ĐBSCL tại diễn dàn "Quản lý tài nguyên nước, lũ lụt, xâm nhập mặn, ứng phó với sụt lún, sạt lở ở vùng ĐBSCL", 18/06/2019.
[12] Minderhoud và nnk, 2017 (trong JV HaskoningDHV Nederland B.V – GIZ, MDIRP, Baseline Report, Feb. 2020).
[13] Văn phòng Thường trực Ủy ban sông Mêcông Việt Nam, Báo cáo xâm nhập mặn ĐBSCL, 3/2020.
[14] Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam,12/02/2020
[15] Cục BĐKH - Bộ TN&MT, BĐKH ảnh hưởng xấu đến nuôi trồng thủy sản, 14/12/2017.
[16] Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo cáo Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Tư vấn: Liên danh HaskoningDHV Nederland B.V – GIZ, Bản cuối, 11/2021.
[17] Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo cáo ĐMC Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Tư vấn: Liên danh HaskoningDHV Nederland B.V – GIZ, 12/2021.
[18] Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo cáo Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Tư vấn: Liên danh HaskoningDHV Nederland B.V – GIZ, Bản tháng 08/2020 và 11/2021.
[19] Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo cáo Quy hoạch vùng ĐBSCL thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, Tư vấn: Liên danh HaskoningDHV Nederland B.V – GIZ, Bản cuối, 11/2021.